SÁCH THAM KHẢO: CẢI THIỆN CHỈ SỐ MỨC ĐỘ PHỔ BIẾN CỦA BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TOÀN CÀU CỦA VIỆT NAM
Từ năm 1979, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã công bố Báo cáo về năng lực cạnh tranh toàn cầu với ý nghĩa là một cơ sở dữ liệu về các chỉ tiêu tác động đến tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng của quốc gia. Theo WEF, năng lực cạnh tranh toàn cầu của quốc gia được định nghĩa là một tập hợp các thể chế, các chính sách và các yếu tố quyết định mức năng suất của quốc gia. Theo đó, năng suất sẽ thiết lập mức độ thịnh vượng mà một nền kinh tế có thể đạt được. Một nền kinh tế cạnh tranh hơn là một nền kinh tế có khả năng để phát triển nhanh hơn theo thời gian. Từ năm 2017 trở về trước, WEF đã công bố về chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) trong Báo cáo thường niên về cạnh tranh toàn cầu, được tính toán dựa trên 12 chỉ số (WEF gọi là 12 trụ cột). Từ năm 2018 trở đi, WEF sử dụng chỉ số GCI 4.0 với ý nghĩa là chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Trong nhóm 12 chỉ tiêu trụ cột được WEF sử dụng để đánh giá chỉ số GCI 4.0, có 34 chỉ tiêu phụ đã từng được sử dụng để tính chỉ số GCI
trong các báo cáo của các năm trước, bổ sung thêm 64 chỉ tiêu phụ mới để phù hợp với bối cảnh mới khi xuất hiện nhiều yếu tố ảnh hưởng từ cách mạng công nghệ 4.0 (4IR – the fourth Industrial Revollution).
Báo cáo hàng năm về GCI của WEF cho thấy xếp hạng chỉ số GCI của Việt Nam từ năm 2012 đến năm 2017 liên tục biến động, cụ thể Việt Nam xếp hạng thứ 75/144 về chỉ số GCI năm 2012 và liên tục tăng trong những năm tiếp theo. Năm 2015, Việt Nam xếp hạng thứ 56/140. Tuy nhiên đến năm 2016, Việt Nam bị tụt hạng xuống vị trí 60/138, có thể coi tụt 4 bậc so với năm 2015. Năm 2017, Việt Nam được xếp hạng thứ 55/137 về chỉ số GCI, tức là tăng 5 bậc so với năm 2016. Năm 2018, WEF sử dụng thêm các chỉ số mới phù hợp với bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam xếp hạng ở vị trí 77/140 quốc gia được khảo sát về chỉ số GCI 4.0, năm 2019 Việt Nam xếp hạng thứ 67. Qua đó cho thấy xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam tuy có tăng nhưng không ổn định.
Theo mô tả của WEF, trong số hơn 100 chỉ số con được sử dụng để tính toán GCI/ GCI 4.0 có chỉ số “bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” thuộc trụ cột Thể chế, chỉ số “Mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan” thuộc trụ cột 6 “Hiệu quả của thị trường hàng hóa” (khi tính GCI) và trụ cột 7 “Thị trường hàng hóa” (khi tính GCI 4.0). Vì vậy, cải thiện mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này trong khi ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về cải thiện chỉ số mức độ phổ biến của rào cản phi thuế nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam xác định tôn trọng mọi nguyên tắc thương mại bao gồm tự do hóa thương mại, tăng cường cải thiện môi trường kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh quốc gia, tăng cường thực hiện tạo thuận lợi thương mại để có thể đạt được lợi ích từ quá trình hội nhập quốc tế. Đặc biệt, từ năm 2014, hàng năm Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết 19 (từ năm 2019 là Nghị quyết số 2) về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong đó, Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ của các Bộ như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ quản lý khác rà soát, bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ, sửa đổi các quy định không phù hợp nhằm cải thiện chỉ số mức độ phổ biến các rào cản phi thuế. Điều đó chứng tỏ quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, cải
thiện những biện pháp phi thuế quan để tăng cường thu hút đầu tư, tăng cường trao đổi thương mại, tăng cường lợi ích từ quá trình hội nhập. Vì thế, nghiên cứu về cải thiện chỉ số mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam là cần thiết và có tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn sách này được biên soạn dựa trên kết quả tổng hợp nghiên cứu nhiệm vụ khoa học cấp Bộ của Bộ Khoa học và công nghệ đã được nghiệp thu năm 2019 nhằm cung cấp những kiến thức về mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan và năng lực cạnh tranh toàn cầu, cũng như cung cấp những thông tin thực tiễn về cải thiện chỉ số mức độ phổ biến của các biện pháp phi thuế quan và năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam dựa trên cách tiếp cận đánh giá về chỉ số của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF). Cuốn sách là tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với các giảng viên, các nhà nghiên cứu, sinh viên, cao học viên, nghiên cứu sinh ngành Kinh tế, Kinh tế quốc tế, Kinh doanh quốc tế,…; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo đối với cán bộ quản lý tại các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Công thương, Bộ KH&CN,… Nội dung cuốn sách được biên soạn bởi tập thể tác giả như sau:
Chương 1: Chỉ số mức độ phổ biến của biện pháp phi thuế và chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam (TS Lê Thị Việt Nga).
Chương 2: Thực trạng chỉ số mức độ phổ biến và kinh nghiệm cải thiện chỉ số mức độ phổ biến của biện pháp phi thuế ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam (TS Dương Hoàng Anh).
Chương 3: Thực trạng một số biện pháp phi thuế ở Việt Nam hiện nay (TS Lê Thị Việt Nga, TS Vũ Thị Thu Hương)
Chương 4: Thực trạng chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu và chỉ số mức độ phổ biến của một số biện pháp phi thuế của Việt Nam (TS Lê Thị Việt Nga, TS Vũ Thị Thu Hương).
Chương 5: Đánh giá về chỉ số mức độ phổ biến của biện pháp phi thuế ở Việt Nam và giải pháp cải thiện chỉ số mức độ phổ biến của biện pháp phi thuế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu (TS Lê Thị Việt Nga).