SÁCH THAM KHẢO: ỨNG DỤNG KINH TẾ TUẦN HOÀN TRONG DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Để làm rõ ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong doanh nghiệp nông nghiệp, cuốn sách này tổng hợp lại những kiến thức cơ bản về ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp và đề cập tới lý thuyết và thực tiễn về ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong doanh nghiệp nông nghiệp tại thành phố Hà Nội. Hiện nay, kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành một xu hướng, được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới, gồm cả khối liên minh châu Âu (đi đầu là Hà Lan, Đức và Đan Mạch), châu Mỹ (tiêu biểu là Canada và Mỹ) và cả châu Á (tiêu biểu là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore) (Trần Hồng Hà 2019; Nguyễn Hoàng Nam và các cộng sự, 2019). Tiêu biểu, từ những năm 1970 Hà Lan đã ban hành ―thang Lansink, với việc bắt buộc ưu tiên ngăn ngừa và hạn chế phát sinh chất thải, thúc đẩy tái sử dụng và tái chế, sau đó mới đến các biện pháp cuối cùng là đốt hoặc chôn lấp (Cramer, 2014). Đức có Luật về Quản lý chất thải và Chu trình khép kín năm 1996 (Schnurer, 2002; Friederich, 2011). Năm 2017, Pháp ban hành lộ trình KTTH. Tại châu Mỹ, Hoa Kỳ áp dụng các cách tiếp cận dựa vào thị trường đối với rác thải từ năm 1677, với rất nhiều điều luật liên quan được ban hành (Nguyễn Hoàng Nam, 2018). Ngoài ra, một số thành phố của Hoa Kỳ đã áp dụng lộ trình ―Không chất thải‖ (Regions of Climate Action, 2017). Tại châu Á, Nhật Bản khởi xướng với Luật Cơ bản cho việc thành lập một xã hội dựa trên tái chế từ năm 2002 (OECD, 2002). Năm 2009, Trung Quốc cũng có Luật Xúc tiến KTTH (McDowall và các cộng sự, 2017). Từ năm 2007 Hàn Quốc đã ban hành Luật Tuần hoàn tài nguyên đối với thiết bị điện tử và phương tiện điện tử và đặc biệt năm 2018 ban hành Luật khung về tuần hoàn tài nguyên. Malaysia ban hành Lộ trình ―Không chất thải nhựa dùng một lần cho giai đoạn 2018-2030 (Kaza, 2018). Các đề tài nghiên cứu liên tục xuất hiện và đem lại hiệu quả cao cho ngành nông nghiệp. Chất thải trong quá trình sản xuất nông nghiệp có thể thông qua các quá trình biến đổi vật lý, hóa học và sinh học để tạo ra các chế phẩm phục vụ nông nghiệp, gia tăng giá trị kinh tế cho người sản xuất (Toop, 2017). Đặc biệt, áp dụng nông nghiệp tuần hoàn công nghệ cao không những có thể tái chế chất thải thành các chế phẩm phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà còn tạo ra năng lượng (điện, biodiesel, nhiệt lượng) để phục vụ cơ giới hóa, tự động hóa và sản xuất những sản phẩm nông nghiệp khác. Tuy nhiên, thực trạng phát triển các mô hình KTTH trong doanh nghiệp nông nghiệp đang có một số hạn chế. Nhiều dự án quy mô nhỏ đem lại hiệu quả tốt trong khi các dự án quy mô lớn còn nhiều hạn chế do quy trình, động lực vận hành, môi trường, chi phí hay con người... Ngoài ra, công nghệ xử lý môi trường còn nhiều khó khăn nên việc nhân rộng các mô hình hay mở rộng quy mô cho dự án nông nghiệp tuần hoàn, hỗ trợ tạo động lực cho người dân đầu tư xử lý môi trường hiệu quả và bền vững còn hạn chế. Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Chiến lược bảo vệ môi trường đến 2020, tầm nhìn 2030, Chiến lược tăng trưởng xanh, Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu, Quyết định 16/2015/QĐ-TTg về thu hồi, quản lý sản phẩm thải bỏ, Chiến lược Quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn năm 2018 và đặc biệt là Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030 ban hành năm 2020 là những chính sách tiêu biểu, thể hiện những bước chuyển dịch về chính sách theo hướng kinh tế tuần hoàn của Việt Nam liên quan đến phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.
KTTH được xem là cách tiếp cận phù hợp cho phát triển nông nghiệp theo xu hướng phát thải bằng không, giúp tăng hiệu quả kinh tế và cải thiện môi trường trong nông nghiệp (Nguyễn Thế Chinh và Nguyễn Hoàng Nam, 2020). KTTH trong ngành nông nghiệp của Việt Nam được biểu hiện thông qua nhiều mô hình như: Mô hình Vườn-Ao-Chuồng (VAC) và các biến thể Vườn-Ao-Chuồng-Biogas (VACB), Vườn-Ao-Chuồng- Rừng (VACR) – mô hình kết hợp giữa VAC với hoạt động lâm nghiệp tại các tỉnh miền núi, và Vườn-Ao-Hồ (VAH) – mô hình trang trại trên cát tại các tỉnh miền Trung đã không chỉ giúp giảm phát thải mà còn đem lại thu nhập tốt cho người dân (Nguyễn Thế Chinh và Nguyễn Hoàng Nam, 2020). Bên cạnh đó, có các hình thức KTTH vẫn tồn tại lâu đời trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam như sử dụng phân chuồng để bón cho cây, sử dụng rơm rạ sau thu hoạch dùng cho trâu bò ăn, sản xuất nấm rơm, sản xuất biogas,.... Một số làng nghề sử dụng phụ phẩm nông nghiệp như bẹ ngô, rơm rạ làm hàng thủ công mỹ nghệ.
Tại Hà Nội, phát triển kinh tế tuần hoàn trong ngành nông nghiệp không những góp phần sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường mà còn mang lại hiệu quả kinh tế và nâng cao đời sống cho người dân. Do vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng tuần hoàn tại Hà Nội cần được xem như là một trong những giải pháp quan trọng cho sự phát triển nông nghiệp bền vững ở khu vực này. Việc đánh giá mức độ thực hiện KTTH là cần thiết để xác định các mô hình KTTH tốt, từ đó làm cơ sở để lựa chọn nhân rộng các mô hình tốt. Tuy nhiên việc ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp ở TP. Hà Nội cũng chịu tác động bởi một số yếu tố đến từ các tác nhân Chính phủ, doanh nghiệp và người nông dân: Chính sách ưu đãi thuế, khoa học công nghệ, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và người nông dân, cơ chế tổ chức quản lý của doanh nghiệp, sự hợp tác thay đổi nhận thức tư duy của người nông dân, sự sẵn sàng ứng dụng KH-CN vào sản xuất nông nghiệp, xử lý rác thải nông nghiệp của người nông dân;... Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định sự phát triển của kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp ở TP Hà Nội nhằm đem lại những hiệu quả về kinh tế cũng như xã hội.
Từ thực tiễn nói trên, cuốn sách là một nghiên cứu có tính hệ thống về ứng dụng kinh tế tuần hoàn và yếu tố ảnh hưởng tới ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn TP. Hà Nội. Nội dung của cuốn sách được trình bày trong 5 chương:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu và lý thuyết về ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong doanh nghiệp nông nghiệp
Chương 2. Nội dung, nguyên lý và yếu tố ảnh hưởng tới ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong doanh nghiệp nông nghiệp
Chương 3. Thực tiễn ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong các doanh nghiệp nông nghiệp
Chương 4. Thực trạng ứng dụng kinh tế tuần hoàn và cấc yếu tố ảnh hưởng tới ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong doanh nghiệp nông nghiệp tại thành phố Hà Nội
Chương 5. Giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn trong doanh nghiệp nông nghiệp tại thành phố Hà Nội